- Vua Lê tiến hành nhiều biện pháp để khôi phục và phát triển nông nghiệp.
- Vua Lê tiến hành nhiều biện pháp để khôi phục và phát triển nông nghiệp.
Nền kinh tế Đại Việt thời Lê sơ vẫn chủ yếu phát triển dựa vào nông nghiệp như các thời kỳ trước. Nhà Lê đã đưa ra các chính sách như đẩy mạnh nghề nông, lập đồn điền, Di dân và khẩn hoàng cũng như thiết lập các chế độ ruộng đất.
Qua những chính sách nông nghiệp thời Lê sơ, có thể thấy nhà nước rất quan tâm đến vấn đề phục hồi và phát triển nông nghiệp lúc bấy giờ. Các chính sách tích cực và phù hợp với tình hình đất nước hiện tại đã góp phần khôi phục và phát triển nền sản xuất nông nghiệp sau chiến tranh chống quân Minh.
Tình hình nông nghiệp thời Lê sơ tuy được nâng lên so với các đời trước nhưng không có nhiều chuyển biến quan trọng. Nông nghiệp chủ yếu vẫn là trình độ kỹ thuật của nền sản xuất dựa trên sức lao động và kinh nghiệm lâu đời. Những công cụ thô sơ, nhỏ bé.
Bên cạnh đó, những công trình thủy lợi lớn do triều đình tổ chức thực hiện cũng như các công trình nhỏ do nhân dân giúp sức đã hạn chế được tác hại của thiên tai, đảm bảo sản xuất nông nghiệp trong nước phát triển bền vững.
Chế độ quân điền là chính sách xuất hiện dưới thời nhà Đường, là việc nhà lấy ruộng đất công lãng xã và ruộng đất bỏ hoang đem chia cho nông dân cày cấy.
Hoc365 vừa trình bày chi tiết tình hình nông nghiệp thời Lê sơ đến bạn. Hy vọng quý bạn độc giả cũng như các em học sinh có thể bổ sung thêm kiến thức về lịch sử Việt Nam nhé! Đừng quên theo dõi chúng tôi để cập nhật thêm thật nhiều bài viết hay hơn nữa.
Trình duyệt của bạn không hỗ trợ HTML5 video.
- Thời gian đào tạo: 5 năm; Danh hiệu cấp bằng: Kiến trúc sư
- Tên ngành “Kiến trúc” được ghi trên bằng tốt nghiệp, bảng điểm và quyết định tốt nghiệp.
+ Tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển (Phương thức 1)
+ Xét điểm Kỳ thi tốt nghiệp THPT (Phương thức 2)
Tổ hợp xét tuyển: Toán, Lý, Vẽ mỹ thuật (V00); Toán, Văn, Vẽ mỹ thuật (V01); Toán, Tiếng Anh, Vẽ mỹ thuật (V02); Toán, Hóa, Vẽ mỹ thuật (V03);
+ Xét điểm học bạ THPT (Phương thức 3)
Tổ hợp xét tuyển: Toán, Lý, Vẽ mỹ thuật (V00); Toán, Văn, Vẽ mỹ thuật (V01); Toán, Tiếng Anh, Vẽ mỹ thuật (V02); Toán, Hóa, Vẽ mỹ thuật (V03);
+ Xét điểm thi V-SAT (Phương thức 5)
Tổ hợp xét tuyển: Toán, Lý, Vẽ mỹ thuật (V00); Toán, Tiếng Anh, Vẽ mỹ thuật (V02); Toán, Hóa, Vẽ mỹ thuật (V03);
- Đào tạo Kiến trúc sư có năng lực chuyên môn tốt, kỹ năng nghề nghiệp thành thạo; có kiến thức về các lĩnh vực kiến trúc, mỹ thuật, nghệ thuật, văn hóa và xã hội, khoa học và môi trường v.v…
- Đào tạo người học có kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành thiết kế kiến trúc công trình dân dụng, công nghiệp; thiết kế nội ngoại thất công trình có khả năng tham gia trong quá trình tư vấn thiết kế, lập và quản lý dự án, cấp phép xây dựng và các công việc có liên quan đến chuyên ngành kiến trúc.
- Kiến trúc sư trong các cơ quan, tổ chức, công ty
- Chuyên viên trong các cơ quan quản lý
- Giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ tại các Trường, Viện, Trung tâm.
Nền kinh tế nước Đại Việt thời Lê Sơ vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp như các thời đại trước, khi công nghiệp về cơ bản chưa có những bước phát triển đáng kể để ứng dụng vào nông nghiệp. Nền sản xuất nông nghiệp thời kỳ này vẫn là nền sản xuất tiểu nông cá thể dựa vào kinh nghiệm là chủ yếu[1].
Ngay từ năm 1427, khi đang vây hãm thành Đông Quan, Lê Lợi đã có chủ trương sẽ cho 25 vạn trong tổng số 35 vạn quân về quê cày cấy sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ giữ lại 10 vạn quân làm lính triều đình. Cùng năm, ông lệnh cho những người chạy loạn trở về quê quán cày cấy và xử tội nặng những người bỏ nghề nghiệp.
Xây dựng xã hội lấy nông nghiệp làm gốc nên nhà Lê chủ trương tận dụng triệt để ruộng đất, không để hoang hóa. Năm 1428, sau khi quân Minh về nước, Lê Thái Tổ lệnh cho con em các tướng và các đầu mục về quê nhận ruộng đất cày cấy. Năm 1429, ông lại ra lệnh: vườn của các quan ở kinh thành đều phải trồng hoa hoặc rau đậu, nếu bỏ hoang sẽ bị thu hồi[2].
Việc miễn giảm tô thuế trong những năm đầu của nhà Lê đã góp phần kích thích nông nghiệp phát triển đáng kể, khôi phục sau 20 năm chiếm đóng của nhà Minh.
Lê Thánh Tông cũng tiếp thu tư tưởng của Lê Thái Tổ, quy định trong Luật Hồng Đức: nếu ruộng đất công có chỗ bỏ hoang thì quan trông coi phải tâu lên để chia cho người cày ruộng khai khẩn, nếu không sẽ bị xử tội[2]
Do ruộng đất bị bỏ hoang nhiều sau chiến tranh, nhà Lê áp dụng chính sách khuyến khích dân khẩn hoang và lập đồn điền để tận dụng sức lao động của các tù binh và người phạm tội.
Việc khai hoang được bắt đầu từ thời nhà Lý; việc lập tổ chức đồn điền và đặt quan chánh phó đồn điền thực hiện từ thời nhà Trần. Nhà Lê kế tục các triều đại trước, cho các tù binh người Minh và người Chiêm Thành khi khai phá những vùng đất mới, lập thôn xóm. Các công thần Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ, Trần Lạn… được cấp tù binh để đi khai hoang. Những vùng đất mới được thành lập mang tên vệ, sở được hình thành ở ven sông thuộc huyện Hưng Nguyên, Thiên Bảo, Diễn Châu…
Sang thời Lê Thánh Tông, chính sách đồn điền được thực hiện rộng rãi. Vua ban chiếu lập đồn điền, mở rộng quy mô các đồn điền tại các địa phương, tận dụng sức lao động của người lưu vong, tội đồ. Tới năm 1481, trong cả nước có 43 đồn điền:
Các đồn điền ở Bắc Bộ thường nhỏ và mang tên xã; trong khi các đồn điền từ Thanh Hóa trở vào rộng lớn hơn và mang tên huyện, do những vùng đất này còn nhiều nơi chưa được khai thác.
Không chỉ tận dụng sức lao động của tù binh và người phạm tội, nhà Lê còn chú trọng tới lực lượng lao động là nông dân tại các địa phương để mở mang những vùng đất hoang. Thời Lê Thánh Tông hình thành hai loại ruộng mới là "ruộng chiếm xạ" và "ruộng thông cáo".
Với chính sách khẩn hoang và cho phép người nông dân được sở hữu ruộng tư, nhà Lê đã khuyến khích được sức sản xuất nông nghiệp tăng đáng kể, giảm bớt mâu thuẫn trong xã hội về ruộng đất[4].
Do chính sách khuyến khích dân, những vùng ven biển Yên Quảng, Sơn Nam và Thuận Hóa trở vào vốn thưa dân ngày càng đông người đến sinh sống.
Chế độ ruộng đất thời Lê sơ chia hai loại chính là ruộng công và ruộng tư.
Ruộng công gọi là quân điền. Trong số ruộng công, một bộ phận được đem phong thưởng cho các công thần, ban cho các quý tộc và quan lại, gọi là lộc điền. Các thân vương hoàng tộc có thể được cấp tới 2000 mẫu ruộng (500 mẫu trong đó là đất tập ấm thừa kế); các quan chính nhất phẩm được cấp 200 mẫu ruộng (trong đó 20 mẫu là đất tập ấm thừa kế).
Tuy nhiên, Lê Quý Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục cho rằng: ruộng đất trên thực tế có không đủ để thực hiện chính sách lộc điền này, do đó chính sách chỉ thực hiện được một phần, do đó trên danh nghĩa các quý tộc và quan lại được hưởng 10 phần song thực tế chỉ được cấp phát bằng khoảng 1/5 trên giấy tờ[5].
Một bộ phận khác trong ruộng công, đất công và đất hoang được kê khai, đo đạc và chia cho các hạng từ tướng, quân, quan, dân tới cả người già yếu, cô quả ở các địa phương được hưởng. Đó gọi là chế độ quân điền. Chế độ quân điền có tác dụng ổn định trật tự xã hội, khôi phục sản xuất nông nghiệp.
Ruộng tư thời Lê sơ chủ yếu nằm trong tay các quý tộc, quan lại và địa chủ chiếm hữu[6]. Một bộ phận nhỏ khác trong tay nông dân có ruộng tự canh tác, nếu có nhiều ruộng, họ lại trở thành địa chủ.
Khí hậu nhiệt đới gió mùa khiến nước Đại Việt thường bị lũ lụt vào mùa mưa và hạn hán và mùa khô. Do đó đắp đê và làm thủy lợi là yêu cầu cấp bách của sản xuất nông nghiệp.
Thời Lê Thái Tông, năm 1438, vua cho đào và khơi các kênh ở Trường Yên, Thanh Hóa, Nghệ An.
Năm 1449, Lê Nhân Tông lệnh cho Cục bách tác đào sông Bình Lỗ từ Lãnh Canh đến cầu Phù Lỗ dài 2500 trượng (10 km).
Năm 1467, Lê Thánh Tông lệnh cho Bộ Hộ khai hoặc lấp các đường nước ở ruộng, không để ruộng bị úng hoặc hạn. Cùng năm, ông sai khai các kênh ở Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa.
Thời Lê Thánh Tông, việc đắp đê sông và đê biển được chú trọng hơn các thời trước. Tại Ninh Bình, năm 1472 vua cho đắp đê bằng đá ở huyện Yên Mô từ phía bắc cửa Thần Phù đến bờ phía nam cửa Cờn và con đê đắp bằng đất từ xã Côi Trì huyện Yên Mô tới bờ nam xã Bồng Hải huyện Yên Khánh. Con đê chống nước mặn này dài hơn 50 km đắp trong niên hiệu Hồng Đức được gọi là đê Hồng Đức. Một đoạn đê Hồng Đức dài gần 25 km, hiện vẫn còn dấu tích tại phía bắc huyện Hải Hậu[7].
Năm 1503, Lê Hiến Tông sai khai cừ An Phúc xuống cừ Thượng Phúc[8] để lấy nước tưới ruộng cho dân.
Bên cạnh các công trình lớn, các công trình nhỏ phục vụ chống hạn thường xuyên được thực hiện.
Việc tu sửa đê và làm thủy lợi được đưa vào quy định của triều đình. Năm 1475, Lê Thánh Tông ra sắc lệnh về sửa đắp đê điều và đường sá. Cùng năm, ông đặt ra chức quan Hà đê để trông coi đê điều và chức quan Khuyến nông để đôn đốc nhân dân việc cày cấy.
Trình độ sản xuất nông nghiệp thời Lê sơ tuy có được nâng lên so với các đời trước nhưng nhìn chung không có chuyển biến quan trọng. Nông nghiệp vẫn điển hình là trình độ kỹ thuật của nền sản xuất tiểu nông dựa trên sức lao động và kinh nghiệm lâu đời, với những công cụ thô sơ, nhỏ bé. Những công trình thủy lợi lớn do triều đình tổ chức thực hiện cũng như các công trình nhỏ do nhân dân góp sức đã góp phần hạn chế được tác hại của thiên tai và bảo đảm cho sản xuất nông nghiệp trong nước[9].